Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn
Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về
Đó là hai câu
thơ mở đầu tập thơ Giấc Mơ Trường Sơn
của Tuệ Sỹ. Quê quán Quảng Bình, sinh năm 1943, Tuệ Sỹ nhỏ hơn Phạm Công Thiện
2 tuổi, cũng là một bậc thiên tài xuất chúng, làu thông kinh điển Nguyên thủy,
Đại thừa và nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Nhật, Hán, Phạn, Pali. Khi mới vừa
26 tuổi đã viết Triết Học Về Tánh Không
làm chấn động giới văn nghệ sĩ, học giả, thiện tri thức Việt Nam thời bấy giờ. Cùng đứng tên trong
nhóm chủ trương tạp chí Tư Tưởng của Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn, trước năm 1975,
Tuệ Sỹ cũng là giáo sư giảng dạy Thiền Tông, Trung Quán Luận ở Đại học Vạn Hạnh
và Cao đẳng Phật học viện Hải Đức, Nha Trang, nổi bật lên như một hiện tượng độc
đáo, gây bao nguồn cảm hứng cho những tâm hồn ưa thích thiền học, thi ca và
phiêu lãng.“Chỉ một bài thơ, Tuệ Sỹ đã
trùm lấp hết mọi chân trời mới cũ, từ Đường thi Trung Hoa tới siêu thực Tây
phương.” Bùi Giáng đã nhận định như thế về Tuệ Sỹ qua bài thơ Không Đề :
Đôi mắt ướt tuổi vàng cung
trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
Từ núi lạnh đến biển im
muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng ?
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa
đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn
Thầy Tuệ Sỹ và Tác Gỉa Tâm Nhiên
Trừ Bùi Giáng
ra, khi nói về Tuệ Sỹ thì có lẽ không ai đủ tư cách, thẩm quyền bằng Phạm Công
Thiện : “Có sống bên cạnh Tuệ Sỹ và Lê
Mạnh Thát từ ngày này qua ngày khác, trong những hoàn cảnh khác nhau thì mới
may ra, cảm nhận đôi chút tác phong thiền sư kín đáo, toát ra một cách tự
nhiên, một cách vô công dụng hạnh từ đời sống thường nhật và tinh thần diệu
nhập của hai vị. Tôi xin gọi hai vị này là thiền sư với tất cả đắn đo thận
trọng, với tất cả ý nghĩa cao đẹp và như thực của một danh xưng xung thiên
chí.” Như vậy, chúng ta có thể gọi Tuệ Sỹ là một thiền sư thi sĩ với ý
nghĩa trọn vẹn, tốt đẹp nhất của danh từ. Điều đó chứng tỏ qua những tác phẩm
thâm viễn uyên áo, nhất là thể hiện qua phong cách sống đạm bạc, đơn sơ giản dị
mà rất nghệ sĩ phóng khoáng, an nhiên tự tại. Khai mở thông lộ tự do cho con
người, biết mỉm cười vô úy, trên tinh
thần hạo nhiên chi khí đại bi tâm.
Năm 1973, Tuệ Sỹ
vừa đúng 30 tuổi, viết Tô Đông Pha Những
Phương Trời Viễn Mộng, một tác phẩm thâm thúy, trữ tình lai láng, tràn đầy
chất nhạc và thơ, mở ra con đường phong quang sáng tạo, ngạt ngào hương vị thi
ca, hòa chan cả trời thơ bát ngát : “Đạt
đến cõi thượng thừa của Thơ như người học Thiền chứng chỗ Không tịch của Đạo,
cái đó vừa khó vừa dễ. Học Thiền ba mươi năm đày đọa thân tâm mà không thành.
Phẫn chí bỏ đi, bất chợt thấy một cánh hoa rơi, cõi Không tịch cũng hoát nhiên,
đột ngột mở ra. Chỗ ảo diệu đó, khó giảng cho thông. Cho nên không thể nào lấy
tay chỉ thẳng vào cõi thơ, rồi bảo đây là chân diện mục của nó…
Thơ phát ra từ những khổ lụy và những nguyện ước khơi
vơi của cuộc tồn sinh, từ độ đó, Thơ đi vào những thảm họa hoành sinh của lịch
sử. Từ buổi bình minh, Thơ vang vọng những lời tình tự thiết tha, từ tiếng chim
thư cưu nơi cồn cát đến những đêm dài trằn trọc... Thơ dấn bước đi vào cuộc lữ…”*
Tuệ Sỹ nói về
cõi thơ Tô Đông Pha mà vô hình trung cũng dường như nói về cõi thơ của chính
mình. Thật vậy, thế giới thi ca Tuệ Sỹ đơn sơ mà kỳ vĩ, bi ai mà hùng tráng, im
lặng mà sấm sét, tĩnh toạ mà phiêu bồng. Đó là cõi thơ thống thiết, bi tráng vọng
vang lên từ một tâm hồn cô liêu cùng tuyệt với hồn thơ hoằng viễn, uyên mặc, u
ẩn, ngân dài trên giai điệu trầm hùng :
Giữa thiên đường rong chơi
lêu lổng
Cõi vĩnh hằng mờ nhạt rong rêu
Ta đi xuống quậy trần hoàn nổi sóng
Đốt mặt trời vô hạn cô liêu
Lời thơ hàm chứa
một điều chi dữ dội, khốc liệt, khiến cho trời thơ bốc cháy niềm cô liêu tối
hậu. Rồi trên những bước đi lồng lộng, độc hành ca giữa đỉnh cao và hố thẳm, thi
nhân làm kẻ rong chơi từ thuở hồng hoang hỗn độn, phiêu hốt tang bồng, rong rêu
lêu lổng trong cuộc mộng trần sa :
Ta làm kẻ rong chơi từ hỗn
độn
Treo gót hài trên mái tóc vào thu
Ngồi đếm mộng đi qua từng đọt lá
Rủ mi dài trên bến cỏ sương khô
Vì lêu lổng mười năm trời
nói mộng
Ôm tình già quên bẵng tuổi hoàng hôn
Một sớm nọ nghe chim buồn đổi giọng
Người thấy ta xô dạt bóng thiên thần
Đất đỏ thắm nên lòng người
hớn hở
Đá chưa mòn sao lòng dạ trơ vơ
Thành phố nọ bởi sương mù nắng quái
Nên mười năm quên bẵng mộng giang hồ
Cuộc rong rêu
phiêu bạt, lãng tử giang hồ vô cùng tận đến nỗi quên bẵng hết những chuyện mộng
mị chiêm bao, hồn thi nhân phóng khoáng, xuất thần lâng lâng rồi chợt bỗng hóa
thân thành cánh chim én mùa xuân bay qua dòng sông chiều tàn hoang vắng hay làm
cánh bướm chao nghiêng, tung lượn xôn xao giữa mưa nắng phong trần :
Một con én một đoạn đường
lay lất
Một đêm dài nghe thác đổ trên cao
Ta bước vội qua dòng sông biền biệt
Đợi mưa dầm trong cánh bướm xôn xao
Bóng ma gọi tên người mỗi
sáng
Từng ngày qua từng tiếng vu vơ
Mưa xanh lên tóc huyền sương nặng
Trong giấc mơ lá dạt xa bờ
Người đứng mãi giữa lòng
sông nhuộm nắng
Kể chuyện gì nơi ngày cũ xa xưa
Con bướm nhỏ đi về trên cánh mỏng
Nhưng về đâu một chiếc lá xa mùa ?
Năm tháng vẫn như nụ cười
trong mộng
Người vẫn đi như nước chảy xa nguồn
Bờ bến lạ chút tự tình với bóng
Mây lạc loài ôi tóc cũ ngàn năm
Ngàn năm rồi mà
sao vẫn còn mãi lạc loài, hỡi mây trắng miên du ? Nhà thơ chợt lặng thầm, trầm
tư thắc mắc, chẳng biết chiếc lá vàng úa rụng xa mùa kia sẽ về đâu giữa phong
ba, bão loạn ? Nhưng rồi bỗng thấy “năm
tháng vẫn như nụ cười trong mộng” nên cứ mặc nhiên cho dòng thơ trôi chảy
qua nghìn bến bờ xa lạ, nhòa nhạt hoang vu tận cuối bãi mịt mù. Trước cuộc dâu
bể vô thường, đổi thay thời thế, thi nhân chạnh lòng trắc ẩn trong ngậm ngùi,
khắc khoải, xót xa cho bao thân phận kiếp người phải hốt hoảng, kinh hoàng vượt
trùng dương để tìm kế sinh tồn. Cưu mang, nung nấu một nỗi niềm tâm sự mênh
mông, không biết bày tỏ cùng ai, nên chẳng biết nói gì hơn là để cho tiếng lòng
ngân lên rưng rức những sầu thương vô hạn, trước bao lượn sóng cuồng phong chìm
nổi giữa sinh tử ba đào :
Một bước đường thôi nhưng
núi cao
Trời ơi ! Mây trắng đọng phương nào
Đò ngang neo bến đầy sương sớm
Cạn hết ân tình nước lạnh sao ?
Một bước đường xa xa biển
khơi
Mấy trùng sương mỏng nhuộm tơ trời
Thuyền chưa ra bến bình minh đỏ
Nhưng mấy ngàn năm tống biệt rồi
Cho hết đêm hè trông bóng
ma
Tàn thu khói mộng trắng Ngân hà
Trời không ngưng gió chờ sương đọng
Nhưng mấy nghìn sau ố nhạt nhòa
Cho hết mùa thu biệt lữ
hành
Rừng thu mưa máu dạt lều tranh
Ta so phấn nhụy trên màu úa
Trên phìm dương cầm hay máu xanh
Hình ảnh máu màu
xanh bầm tím rơi xuống như mưa mù thảm đạm thật khiếp đảm làm sao, gợi ra bao
cảnh xiêu hồn lạc vía ở địa ngục âm u, mù tăm tối. Ơi chao ! Địa ngục đó, chẳng
phải ở dưới lòng đất sâu kín kia mà lại ở ngay trên mặt đất trần gian này mới đau
đớn, rợn người khủng khiếp chứ ! Từ khi chứng kiến biết bao oan khiên nghiệt
ngã, biết bao khổ lụy, đọa đày diễn ra một cách tàn bạo, vô nhân đạo, vô lương
tâm trên khắp mọi miền trên thế giới, nhà thơ nhạy cảm của chúng ta đã thấm
thía một nỗi buồn vạn cổ sầu trong vô lượng xót thương :
Ôi nỗi buồn từ ngày ta lạc
bước
Cố quên mình là thân phận thần tiên
Cốt cách, phong
vận của thi nhân vốn là ở cõi tự do tiêu sái, tiêu dao, bay bổng chất ngất một
trời thần tiên, huy hoàng tráng lệ. Thế mà cũng đành phải cố quên đi tất cả, vì
ma quỷ A tu la, tham sân si đã hiện hình như người, dùng bạo lực thâm độc, dốc
hết tốc độ tham tàn, sân hận, si mê giáng xuống những tai ương thảm họa, trong cơn
điên đảo loạn cuồng. Buồn quá phải không, buồn chết lặng, quặn lòng đau tê tái
giữa chập chùng bóng tối u mê :
Lửa đã tắt từ buổi đầu sáng
thế
Một kiếp người ray rứt bụi tro bay
Tôi ngồi mãi giữa tha ma mộ địa
Lạnh trăng tà lụa trắng trải rừng cây
Khuya rờn rợn gió vèo run bóng quỷ
Quỷ run run hôn mãi lóng xương gầy
Khóc năn nỉ sao hình hài chưa rã
Để hồn tan theo đốm lửa ma trơi
Khi tâm tư chưa là gỗ mục
Lòng đất đen còn giọt máu xanh ngời
Lời thơ đồng
vọng âm khí quỷ mị Lý Hạ, thấp thoáng ma quái Bồ Tùng Linh. Một khi đối diện
với quỷ ma giữa ban ngày thì hầu hết chúng ta đều hãi hùng khiếp sợ, nhưng ở
đây, kỳ lạ thay, giữa phủ trùm bóng đêm đen tối, rình rập thập tử nhất sinh, nhà
thơ vẫn ngồi dạo cung đàn sinh tử một cách hào hùng vô uý, khi biết mình đang
giáp mặt với đủ loại ma quân đang chập chùng vây khổn :
Bóng có rơi giật mình sửng
sốt
Mặt đất rung Ma Quỷ rộn phương trời
Chút hơi thở mong manh trên dấu lặng
Đêm huyền vi giai điệu không lời
Ơi chao ! Một
mình, một bóng lặng thầm lẫm liệt, hiên ngang bất khuất, dấn bước lên đường
dưới gầm trời bão loạn cuồng si. Đi về đâu hỡi Long Thọ, Mã Minh, Thế Thân, hỡi
Tăng Triệu, Bồ Đề Đạt Ma, Huệ Năng, hỡi Lý Hạ, Tô Đông Pha, Vương Duy, hỡi Thiện
Tài, Duy Ma Cật, Thắng Man, hỡi Nietzsche, Hoelderlin, Heidegger…giữa điêu tàn,
tan hoang trên mặt đất ? Thân gầy như hạc, như trúc nhưng hồn thơ vẫn vút bay
lồng lộng chín tầng trời cao xanh bát ngát, rồi lặng hồn lắng nghe đồng vọng
vang lên những lời kinh Hoa Nghiêm hùng tráng :
Trang phục bằng khôi giáp Nhẫn
kiên cố
Thanh gươm Trí trong cánh tay Đại bi
Nguyện đấng Đại Hùng dũng mãnh hướng dẫn con
Trực diện chiến đấu với ma quân
Với cánh tay Đại
bi cầm thanh gươm Đại trí, thi nhân còn mặc thêm áo giáp Vô sanh pháp nhẫn nữa
thì cũng thừa sức dấn mình vào địa ngục trần gian, trực diện đương đầu với đảo
điên, chuyển hóa ma vương, quỷ sứ đang quờ quạng, loạn cuồng trong bóng tối vô
minh. Cuộc thế trận sinh tử kinh hồn, một lần tận tường giáp mặt là một lần
thấu triệt lẽ vô thường, huyễn ảo quá đỗi mong manh trong cõi người ta và cũng
chính từ đó, thi nhân mới phát Bồ đề tâm, phát đại nguyện thượng thừa, gánh vác
lên vai vô số khổ lụy đoạn trường của nhân gian như chính lời Tuệ Sỹ tự nhắc
nhở thì thầm : “Bồ đề tâm, đó là chí
nguyện nóng bỏng của một chúng sinh tự thấy mình đang sống trong cảnh tối tăm
giữa đọa đày khổ nhục, mong tìm một con đường sáng, không những để giải thoát
bản thân khỏi những đe dọa áp bức mà còn là để giải thoát cho tất cả những
người cùng cảnh ngộ. Bồ đề tâm, đó là ý chí kiên cường, bất khuất của một con
người bị cột trói trên ngọn lửa rực cháy, bị chà đạp dưới những sức mạnh tàn
khốc bởi tham vọng điên cuồng của chính ta và của một tập thể ma quái chung
quanh ta. “Vui sướng gì, thích thú gì giữa ngọn lửa tam độc không ngừng thiêu
đốt ? Bị bao phủ trong bóng tối, sao không đi tìm bó đuốc ?” Không có tâm
nguyện đó, không có ý chí đó, Bồ tát đạo chỉ là một con đường xa xôi, không tưởng,
thần thoại hoang đường và Phật thừa không hơn một tiếng nói suông của một người
mê sảng trong giấc ngủ ngày.”** Thi nhân thấy như vậy bằng đôi mắt sâu thẳm
của chính mình nên vẫn thường thích nghi, tùy duyên nhẹ bước vào ra giữa ta bà
đây đó :
Đây khúc nhạc đưa hồn lên
máu đỏ
Bước luân hồi chen chúc cọng lau xanh
Xô đẩy mãi sóng vàng không bến đỗ
Trời lênh đênh ma quỷ rắc tro tàn
Vẫn khúc điệu tự ngàn xưa
ám khói
Ép thời gian thành rượu máu trong xanh
Rượu không nhạt mà thiên tài thêm cát bụi
Thì ân tình ngây ngất cõi mong manh
Ôi tiết nhịp thiên tài hay
quỷ mị
Xô hồn ta lảo đảo giữa tường cao
Trưa dài lắm ta luân hồi vô thủy
Đổi hình hài con mắt vẫn đầy sao
Từ vô thủy đến
vô chung, cuộc luân hồi khởi sự từ đâu chẳng biết, chỉ hay rằng từ lúc nghe
đồng vọng những trận gió phù trần, tận chốn miền thiên thu vi vu thổi tới giữa
vạn đại miên trường :
Đá mòn phơi nẻo tà dương
Nằm nghe nước lũ khóc chừng cuộc chơi
Nghìn năm vang một nỗi đời
Gió đưa cuộc lữ lên lời viễn phương
Đan sa rã mộng phi thường
Đào tiên trụi lá bên đường tử sinh
Sinh tử là một
việc trọng đại như thi nhân đã có lần nói tới trong lời tựa Vô Môn Quan của thiền sư Vô Môn, do Trần
Tuấn Mẫn dịch : “Nơi đây, sa mạc vẫn cứ
thiên thu cô tịch trong cơn gió bức bách của hư vô. Lẽ sống và lẽ chết vẫn mãi
bồng bềnh trong hư ảo. Tâm hồn miệt mài nóng cháy, nhưng không cháy tan nổi
những giấc mộng hãi hùng của hư vô và huỷ diệt.” Hư vô đã trở thành một thứ
chủ nghĩa đang huỷ diệt mặt đất một cách trầm trọng đau thương, gây bao tang
tóc não phiền, khiến thi sĩ nghe ra nghèn nghẹn tận đáy hồn :
Một ước hẹn đã chôn vùi
tang tóc
Cánh chim trời xa mãi giữa lòng sâu
Nghe một nỗi hao mòn trong thoáng chốc
Một mùa thu một vạn tiếng kêu gào
Khuya còn lạnh sương mù và
gió lốc
Thở hơi dài cát bụi cuốn chiêm bao
Bên cửa sổ bên kia đồi sao mọc
Một lần đi là vĩnh viễn con tàu
Đi để nhớ những chiều pha
tóc trắng
Mắt lưng chừng trông giọt máu phiêu lưu
Giọt máu nào
phiêu lưu, giọt lệ nào phiêu lạc, trôi tan tác lao đao trong nỗi hao mòn tàn tạ,
trong cơn gió lốc kinh hồn, rờn lạnh buốt xương da ? Đi là đi mất, đi biền biệt,
biến tan như sợi khói mỏng manh giữa bầu trời cao rộng, không bao giờ trở lại
nữa, nhưng vừa đi vừa ngắm nhìn, lắng nghe những tiếng gào kêu trầm thống của
nhân gian, của thập loại chúng sinh đang quằn quại, rên siết trong bao đổ nát
đoạn trường, dâu bể tan hoang đầy thảm hoạ tồn sinh, bức bách rợn ngần :
Tiếng ai khóc trong đêm
trường uất hận
Lời ai ru trào máu lệ bi thương ?
Hồn ai đó đôi tay gầy sờ soạng
Là hồn tôi tìm dấu cũ quê hương
Ai tóc trắng sững sờ trên
tuyết lãnh
Bước chập chờn heo hút giữa chiều sương
Viên đá nhỏ mấy nghìn năm cô quạnh
Hồn tôi đâu trong dấu vết hoang đường ?
Hoang đường nào
còn in trên dấu vết lênh đênh ? Tên tuổi nào cô liêu đến bạc trắng cả mái đầu ?
Sầu thế kỷ điêu linh nào cứ ngân dài mãi trong não nề thê thiết :
Tang thương một dải tóc
huyền
Bãi dâu ngàn suối mấy miền hoang vu
Gởi thân gió cuốn xa mù
Áo xanh cát trắng trời thu muộn màng
Chênh vênh hoa đỏ nắng vàng
Gót xiêu dốc núi vai mang mây chiều
Tóc huyền loạn cả nguyên tiêu
Lãng du ai ngỡ cô liêu bạc đầu
Cô liêu, cô đơn,
cô độc, cô lữ là bước đi kỳ cùng của người thi sĩ bi tráng dị thường. Bước đi
chênh vênh, bên này cát bụi phù du, bên này bờ Thị Ngạn, xao xác cọng lau gầy
sậy yếu lặng phất phơ. Thở cùng hương trái đắng và hương nắng buồn trong mắt
biếc nhiều diệu vợi uyên tư :
Gà xao xác gọi hồn ta từ
quá khứ
Về nơi đây cùng khốn với điêu linh
Hương trái đắng mùa thu buồn bụi đỏ
Ôi ngọt ngào đâu mái tóc em xinh
Từng tiếng lẻ loi buồn
thống thiết
Nghe rộn ràng từ vết lở con tim
Từ nơi đó ta ghi lời vĩnh biệt
Nắng buồn ơi là đôi mắt ân tình
Còi xa vắng giữa trưa nào
lạc lõng
Môi em hồng ta ước một vì sao
Trưa dài lắm nhưng lòng tay bé bỏng
Để vươn dài trên vầng trán em cao
Em ở đây chính là
hình ảnh cuộc đời. Cuộc đời nếu nhìn từ chân đế, vốn là tuyệt trần chân mỹ, vốn
là bất sinh bất diệt, vốn là Niết bàn, Tịnh độ vô lượng vô biên. Biết được điều
đó, cho nên lòng thi nhân tự bao giờ vẫn khoan dung rộng lượng, thương yêu nhân
loại trong vô ngôn lặng lẽ, trong tận cùng dung nhiếp âm thầm, chia sẻ với muôn
loài vạn vật trần ai :
Ta sống lại trên nỗi buồn
ám khói
Vẫn yêu người từng khoảnh khắc chiêm bao
Từ nguyên sơ đã một lời không nói
Như trùng dương ngưng tụ ánh hoa đào
Nghe khúc điệu rộn ràng đôi cánh mỏi
Vì yêu người ta vói bắt ngàn sao
Vô biên, vô
lượng thương yêu con người tha thiết mà không bao giờ nói mình yêu thương gì
hết cả, đó mới chính là thương yêu đích thực nhất. Phải chăng chỉ có những tấm
lòng Bồ tát mới có thứ tình yêu vô điều kiện, vô phân biệt như vậy ? Một tình
yêu rộng rãi, đại bi tâm nhập diệu, kết tinh thành bản tình ca mà thi sĩ thường
lắng nghe từ hun hút biển ngàn, sông núi giữa trời đất mênh mang :
Ngọn gió đưa anh đi mười
năm phiêu lãng
Nhìn quê hương qua chứng tích điêu tàn
Triều Đông hải vẫn thì thầm cát trắng
Chuyện tình người và nhịp thở Trường Sơn
Mười năm nữa anh vẫn lầm lì
phố thị
Yêu rừng sâu nên khóe mắt rưng rưng
Tay anh vói trời cao chim
chiều rủ rỉ
Đời lênh đênh thu cánh nhỏ bên đường
Mười năm sau anh băng rừng
vượt suối
Tìm quê hương trên vết máu đồng hoang
Chiều khói nhạt như hồn ai còn hận tủi
Từng con sông từng huyết lệ lan tràn
Mười năm đó anh quên mình
sậy yếu
Đôi vai gầy từ thuở dựng quê hương
Anh cúi xuống nghe núi rừng hợp tấu
Bản tình ca vô tận của Đông phương
Bản tình ca vô
tận ấy, thi nhân vẫn nghe hoài rung ngân bất tuyệt trên những dặm dài long đong
lữ thứ, ở dọc đường quán trọ bơ vơ, bên làng mạc thôn ấp đìu hiu, cạnh ven rừng
sơn dã hay quanh triền sông, thị trấn tiêu điều hoặc trên ghềnh suối truông
ngàn, hoang vắng tịch liêu giữa những chiều sương khói chơi vơi, bềnh bồng
trống trải :
Em trải áo trên hoa rừng
man dại
Để hoa rừng nước cuộn biết yêu nhau
Nhưng nước cuộn xóa đời ta trên bãi
Để hoa rừng phong nhụy với ngàn lau
Em xỏa tóc cho cây khô sầu
mộng
Để cây khô mạch suối khóc thương nhau
Ta cúi xuống trên nụ cười chín mọng
Cũng mơ màng như phố thị nhớ rừng sâu
Ta chiến đấu nhọc nhằn như
cỏ dại
Thoảng trông em tà áo mỏng vai gầy
Ôi hạnh phúc chợt thấy mình nhỏ bé
Chép tình yêu trên trang giấy thơ ngây
Ta cúi xuống trên chân
người bụi đỏ
Để nhìn sâu trong vết tích hoang đường
Ta sống lại trên môi cười rạng rỡ
Để nhìn sâu trong ngọn nến tàn canh
Bằng ánh mắt rực
lửa từ tâm thâm cảm, nhà thơ nhìn sâu vào lòng đời với nụ cười bao dung rộng
mở. Thở cùng điệu hát bản tình ca, nhã nhạc vang lừng trên núi rừng cô tịch hay
giữa ngày hội lễ rộn ràng dưới phố thị xôn xao, nhà thơ đều lắng nghe trong
từng khoảnh khắc lặng trầm, cảm nhận sâu xa vì biết chỉ là chiêm bao huyễn mộng,
trong khói bụi chập chờn :
Em mắt biếc ngây thơ ngày
hội lớn
Khóe môi cười nắng quái cũng gầy hao
Như cò trắng giữa đồng xanh bát ngát
Ta yêu người vì khoảnh khắc chiêm bao
Em là nàng thơ,
là hình ảnh cuộc sống. Cuộc sống nếu nhìn từ tục đế thì đầy những thăng trầm,
điêu linh, khổ lụy từ nghìn xưa đến ngày nay. Khổ đế là sự thật thứ nhất mà Đức
Phật đã chỉ bày cách đây gần ba nghìn năm rồi, giống như nhà văn Hermann Hesse
phát biểu : “Dù có bị đau đớn quằn quại,
tôi vẫn yêu thương trần gian điên dại này.” Nhà thơ Tuệ Sỹ cũng vậy, cũng
hết lòng thương yêu con người, dù kiếp người có tàn xiêu hiu hắt :
Ai biết mình tóc trắng
Vì yêu ngọn lửa tàn
Rừng khuya bên bếp lửa
Ngồi đợi gió sang canh
Một hình một
bóng cô đơn, ngồi trên tuyệt đỉnh núi lạnh xanh rờn, sẵn sàng chờ đợi một điều
gì có thể xảy đến, đôi mắt thi nhân cúi nhìn xuống cuộc đời đang chìm trong
bóng tối mù sa mà cảm thương một nỗi u buồn, xót xa sầu khôn tả, sầu cho kiếp
người sớm nắng chiều mưa :
Ta không buồn còn ai buồn
hơn nữa
Người không đi sông núi có buồn đi
Tia nắng mỏng soi mòn khung cửa
Để ưu phiền nhuộm trắng hàng mi
Ta lên bờ nắng vỗ bờ róc
rách
Gió ở đâu mà sông núi thì thầm
Kìa bóng cỏ nghiêng mình che hạt cát
Ráng chiều xa ai thấy mộ sương dầm ?
Ráng chiều xa
bảng lảng, bóng hoàng hôn nhân loại đang phủ trùm vàng vọt xuống khắp vùng sông
núi Đông phương. Cho dẫu đường đời giăng bẫy đầy nghịch cảnh, nhiều hầm hố cách
ngăn, khó khăn trắc trở gì gì đi nữa, thi nhân vẫn nhận diện, tỉnh thức trước
những sự kiện đang diễn biến, vì đã bừng ngộ thấy : “Ngay trong phiền não tức là Bồ đề, ngay trong những nguy hiểm đáng sợ
hãi của sinh tử cũng chính là Niết bàn an ổn. Sợi dây bị tưởng lầm là con rắn,
nhưng không phải hủy diệt sợi dây để diệt trừ ảo giác gây nên sợ hãi. Ngoài
những gì vô thường được thấy, được kinh nghiệm bằng chính mắt, tai, mũi, lưỡi
này, không tồn tại một thế giới chân thường, đại lạc hay đại ngã nào khác. Đó
chính là thực tại Nhất nguyên tuyệt đối.”*** Phải chăng, đó là cái thấy
bằng tuệ giác siêu việt ? Thể hiện một tâm hồn thượng đẳng, hoằng đại, thấu thị
lẽ đời, lý đạo vô vi. Một khi nhà thơ có cái nhìn tuệ giác đó rồi thì những sầu
khúc thê lương kéo dài trong đợi chờ não nuột, suốt mười lăm năm trường đọa đày
kia cũng chẳng hề dao động mà vẫn như như một cách vô quái ngại :
Tôi vẫn đợi những đêm xanh
khắc khoải
Màu xanh xao trong tiếng khóc ven rừng
Trong bóng tối hận thù tha thiết mãi
Một vì sao bên khóe miệng rưng rưng
Tôi vẫn đợi những đêm đen
lặng gió
Màu đen tuyền ánh mắt tự ngàn xưa
Nhìn hun hút cho dài thêm lịch sử
Dài con sông tràn máu lệ quê cha…
Rồi trước mắt ngục tù thân
bé bỏng
Ngón tay nào gõ nhịp xuống tường rêu
Rồi nhắm mắt ta đi vào cõi mộng
Như sương mai như ánh chớp mây chiều
Chút thân bé
bỏng dù có bị tù ngục, lưu đày vì sự ngộ nhận của thế lực vô minh, nhưng ngay
trong dầu sôi lửa bỏng, trong đêm dài sinh tử đó, thi nhân đã nhập thần đại
thiền định, thấu thị tất cả vạn pháp “như
sương mai như ánh chớp mây chiều” làm vỡ bùng, rơi rụng bóng tối để rực ngời
lên ánh phong quang tuệ giác. Một câu thơ lấy từ ý kinh Kim Cang : “Trùng trùng pháp hữu vi. Như huyễn mộng,
bọt nước. Như ánh chớp, sương mai. Thường quán tưởng như thị.” Giữa trùng
trùng vạn pháp, muôn loài vạn vật, núi sông rừng biển, thiên nhiên vũ trụ và
con người đều như mộng, như huyễn, như bọt nước, như sương rơi… Phải tận tường
thường xuyên quán chiếu thấy rõ ràng như thế. Chúng ta hãy nghe Tuệ Sỹ nói : “Tất cả giáo pháp của Phật đều hướng đến
diệt trừ tự ngã. Tôi đang tồn tại, đó là một hiện thực, đồng thời cũng là một
ảo ảnh. Đau khổ là một sự thực. Cái tôi đang đau khổ ấy lại là ảo ảnh. Cái ta
ảo ảnh được bọc trong vỏ trứng vô minh, nó được định hình bằng vọng tưởng thành
thân thể ta, linh hồn ta, sở hữu của ta, tài sản của ta, cho đến núi sông này
là của ta, tài sản này là của ta, ta là tài sản này, sông núi này là của ta, ta
là sông núi này. Cho nên, khi tán gia bại sản, khi sông núi sụp đổ, cái ta vọng
tưởng cũng sụp đổ thì có kẻ trầm mình xuống sông hoặc treo cổ trên cành. Vì
thế, khi nghe nói cái ta này là ảo ảnh, là không thực, người nghe có thể kinh
hoàng như nghe sét đánh ngang tai. Tiếng sét đó là từ Kim Cang Bát Nhã. Duy có
điều, mọi người đều mù, chỉ thấy bóng tối, mọi người đều điếc, chỉ nghe tiếng
vo ve. Làm sao có thể thấy cái ta chỉ là ảo ảnh ? Làm sao nghe được tiếng sấm
từ kinh Kim Cang ? Với những ai có mắt để thấy, có tai để nghe, kinh Kim Cang
sẽ chỉ đường để đối diện với ảo ảnh của cái tôi và chỉ cách vận dụng kim cang
xử đập vỡ vỏ trứng vô minh bao bọc tự ngã.”
Khi thi nhân
lãnh hội, quán chiếu sâu xa, đã thấy tất cả vạn pháp như ảo ảnh, mộng huyễn như
vậy rồi thì hoát nhiên hiển lộ, bừng sáng lên một phương trời Tánh Không lồng
lộng, không ngằn mé, cho nên hết thảy mọi khổ nạn, mọi điêu linh trầm thống đều
chuyển hóa thành lửa tịch mịch, tự nhiên đốt cháy hết những kinh hoàng khủng
khiếp của địa ngục trần gian và sầu khúc thê lương trở thành “bản tình ca vô tận của Đông phương” thâm
thúy dưới ngàn trăng sao, xao xuyến lặng huyền hòa. Tiếng đàn bất tuyệt miên
man, réo rắt lặng hồn dưới bàn tay nghệ thuật điệu luyện, dìu dặt âm vang qua Những Điệp Khúc Cho Dương Cầm thấm thiết
mãi ngân nga từ cõi mộng không lời với một nụ cười sâu lắng tự tri :
Khói ơi ! Bay thấp xuống đi
Cho ta nắm lại chút gì thanh xuân
Ta đi trong cõi Vĩnh hằng
Nhớ tàn cây nhỏ mấy lần rụng hoa
Vĩnh hằng chẳng
ở đâu xa mà ngay trong mỗi sát na hiện tại, ở đây và bây giờ, ngay trong tiếng
ve sầu hay từng nhịp thở nhẹ nhàng, từng phím đàn lặng lẽ giữa lòng phố bụi lao
xao :
Ve mùa hạ chợt về thành phố
Khóm cây già che nắng hoang lương
Đám bụi trắng cuốn lên đầu ngõ
Trên phím đàn lặng lẽ tàn hương
Tiếng ve dội lăn tăn nốt nhỏ
Khóc mùa hè mà khô cả đại dương
Hương gì tan
trên phím đàn phiêu hốt ? Vì sao “khóc
mùa hè mà khô cả đại dương” ? Ngôn ngữ thi ca thường chứa nhiều ẩn dụ,
tượng trưng, hàm súc như vậy, chúng ta tha hồ suy diễn, lãnh hội, cảm nhận theo
đủ cách điệu riêng tư của mình thôi. Đọc thơ Tuệ Sỹ là ngao du phiêu lãng, bước
dạo chơi vào một thế giới diêu mang, kỳ ảo vô vàn :
Một ngày chơi vơi đỉnh thác
Nghe bồn chồn tiếng gọi hư không
Giai điệu nhỏ dồn lên đôi mắt
Mặt hồ im ánh nước chập chờn
Mặt hồ im tảng màu man mác
Ảnh tượng mờ một chút sương trong
Quãng im lặng thời gian nặng hạt
Tôi nghe đời trong tấu khúc Thiên hoang
Tấu khúc Thiên
hoang vang rền như Hòa Tấu Khúc Thứ 9
của Beethoven đồng vọng trong tận đáy lòng Không Tánh vô biên, khiến cho thi
nhân tự mình thưởng thức hương vị cô liêu của cuộc sống diệu thường :
Tự tâm tự cảnh tự thành
chương
Tự đối bi hoan diệc tự thưởng
( Cô độc cảnh tâm thơ tự xuất
Tự ngắm buồn vui tự thưởng thức )
Nỗi cô đơn của
Tuệ Sỹ cùng tương ứng với triết gia Nietzsche : “Hỡi cô đơn ! Quê hương của ta ! Ôi giọng nói của mi nói với ta nghe
sao mà dịu dàng hân hoan đến vậy ! Chúng ta không thắc mắc nhau điều gì, không
than thở nhau điều gì, thong dong chúng ta cùng vượt qua những cánh cửa mở
rộng.” Đồng cảm với thiền sư Không Lộ :
Cắm cột am cao đất rắn rồng
Vi vu thân thế tuyệt đời ông
Đỉnh non có buổi leo lên thẳng
Gầm dài một tiếng lạnh hư không
Đồng điệu với
Tuệ Trung Thượng Sỹ :
Dù chốn lầu son hay sơn lâm
Nơi nào cũng vậy vẫn an tâm
Nhân gian đều thấy ngàn non sáng
Ai lắng nghe ra tiếng vượn trầm
Ở bất cứ nơi nào
dù giữa heo hút rừng sâu hay ngay chốn phồn hoa đô hội đi chăng nữa thì người
tự tri tự ngộ, kẻ sáng tạo đích thực vẫn tiêu dao vô ngại. Cái quan trọng không
phải ở hình thức cư xử bên ngoài mà là bản tánh thanh tịnh sâu kín, là nguồn
tâm thâm diệu bên trong lòng mình đó thôi. Nỗi cô đơn trầm hậu, xuất thần cất
lên tiếng thơ ngân dài sâu thẳm lâm ly, thi nhân đã thưởng thức được hương vị
cô liêu của đời sống nội tâm vi tế… Thế thì, tuyệt cùng ẩn ngữ thi ca Tuệ Sỹ là
gì ? Làm sao chỉ ra được, khi ngôn ngữ cứ lấp lánh, ẩn hiện trong ánh sáng phát
ra từ tâm cảm thông tuệ siêu phàm ? Có ai nắm giữ được những tiếng dương cầm,
âm thanh thánh thót, nhẹ nhàng vang ngân bất tận từ giữa lòng bàn tay của người
nghệ sĩ tài hoa kia ?
Chia lìa, chia
ly, chia tay hay buông bỏ, buông xả hết thảy mọi sự thị phi, hỷ nộ ái ố dưới
thành phố Sài Gòn hỗn độn, ồn động đủ thứ phù hoa, nhà thơ đã rời khỏi Thị Ngạn
Am ở Gò Vấp gần ba năm nay rồi. Bây giờ, Tuệ Sỹ sống lang thang đúng nghĩa lang
thang, hoàn toàn rỗng rang vô sự. Bước đi vô sở trú, vô sở cầu, vô sở đắc, lặng
lẽ mở ra cuộc lữ tự do tự tại giữa đang là.
Lẫn vào cảnh giới ta bà, hòa nhập cùng cát bụi phiêu du, Tuệ Sỹ thong dong
trên ngõ về im lặng, thi nhân thường ẩn mình trên núi rừng Đamri hoang vắng
tịch liêu, nằm phiêu dật giữa đất trời thanh lương hùng vĩ. Tuy nhiên cũng có
lúc tiêu dao với mây trắng lặng lờ ở thung lũng Madagoui huyền ảo, lúc thì lên
đồi Phương Bối ở vùng Đại Lão, Bảo Lộc uống trà với nhà thơ Nguyễn Đức Sơn, khi
thì rờn lạnh theo sương ngàn xuôi về phố hoa Đà Lạt, ghé lại bên cầu sông nước
Đại Ninh cùng dăm ẩn sĩ tâm tình, rồi bồng tênh xuống miền biển khơi Vạn Giã,
Nha Trang muôn trùng bát ngát… Hát khúc vô thanh, phiêu diêu siêu thoát làm hồi
phục những tiêu điều, hiu hắt dọc khắp ven đường thi sĩ bước đi qua. Đi bộ và chỉ đi bộ, độc hành ca
bằng đôi chân trần, thấm đẫm gió sương dãi dầu mưa nắng :
Đi để nhớ những chiều pha
tóc trắng
Mắt lưng chừng trông giọt máu phiêu lưu
Không phải phiêu
lưu khám phá những phương trời viễn mộng như thi hào Tô Đông Pha mà cuộc lữ phiêu
nhiên không mục đích, không chỗ trụ, không mong cầu chi hết đấy thôi. Phương
trời lưu viễn chơi rong, thõng tay vào chợ, thở cùng điệu thở nhập cuộc thênh
thang sáng tạo quá đỗi phiêu bồng thi ca… Hòa cùng nhịp bước lãng du của người
thi sĩ kỳ tuyệt đó, tôi chợt bỗng nghe văng vẳng lời nói của Phạm Công Thiện,
một người bạn thâm tình chí cốt của Tuệ Sỹ :
“Một con người vừa là thi sĩ vừa là thiền sư, vừa là nhà hành động nhập thế với
tinh thần vô công dụng hạnh của bậc Bồ tát. Hành động tích cực, mãnh liệt toàn
triệt mà vẫn giữ cảm thức viễn ly và viễn mộng, vì không tham vọng, ích kỷ mù
quáng, cho nên nuôi dưỡng cảm thức viễn ly, vì không bị kẹt dính vào tham sân
si của thế tục, cho nên mới hàm dưỡng viễn mộng, Tuệ Sỹ là một trong số ít đạo
sĩ thi nhân với pháp khí phi thường là Trí tuệ Bát nhã cùng với lòng Đại bi thơ
mộng, Tuệ Sỹ là một trong số ít thể hiện được ý nghĩa trọn vẹn của ý thức chính
trị toàn diện, ý thức hành động Bi Trí Dũng, dẫn đường soi sáng Thể mệnh của Sử
tính quê hương…
Thơ Tuệ Sỹ chính là tiếng thơ đổi giọng của một loài
chim bay từ cõi xa xưa của vô biên tế kiếp trong lòng sâu thẳm của Tính mệnh
quê hương…
Anh không thể cảm thơ người ta thì anh hãy im lặng,
còn nếu cảm được thì anh hãy tha thiết ca ngợi, đừng e dè giữ gìn gì cả. Không
nên có những kẻ phê bình thơ mà chỉ nên có những người ca tụng thơ. Thơ là của
riêng từng người, không có ai làm thầy ai cả.”
Bắt chước Phạm
Công Thiện, tôi cũng muốn ca ngợi, tán thán Tuệ Sỹ, một thiền sư thi sĩ vĩ đại,
một trái tim Kim Cang bất hoại, vô úy nhưng ngợi ca làm chi nữa, khi mà tiếng
thơ của thi nhân đã làm chấn động, rung chuyển cả thế giới hoàn cầu và lan tỏa
lạ thường ra khắp vũ trụ mười phương rồi. Thôi thì chỉ xin đọc tặng bài thơ,
khi một chiều bữa nọ, bất ngờ trùng ngộ thi nhân đang ẩn cư ở vùng biển xanh
Vạn Giã, trong một ngôi cổ tự rêu phong trầm tịch mịch :
Những phương trời viễn mộng đi
Thi ca tư tưởng
bước kỳ ảo qua
Đọa đày một thuở
ta bà
Nỗi đau rực cháy
thấy ra tột cùng
Ôi ! Giấc mơ Trường Sơn
rung
Rúng hồn tim máu
chợt bùng vỡ mơ
Kinh thiên động
địa sững sờ
Đâu chân diện
mục của thơ với thiền ?
Mặc như lôi ngồi tịch nhiên
Nghe ban sơ vọng
ngân huyền diệu âm
Những điệp khúc cho dương cầm
Từ vô tận ý vang
thâm thiết niềm
Tâm Nhiên
* Tuệ
Sỹ. Tô Đông Pha Những Phương Trời Viễn Mộng. Ca Dao xuất bản, Sài Gòn 1973
** Tuệ Sỹ. Thắng Man Giảng Luận. Phương Đông xuất bản 2012
***
Tuệ Sỹ. Huyền Thoại Duy Ma Cật. Phương Đông xuất bản 2007
Thơ
Tuệ Sỹ ( chữ nghiêng ), trích trong các tác phẩm :
Giấc Mơ Trường Sơn. An Tiêm xuất bản, Paris 2002
HOÀNG HÔN TRÊN SÔNG Ô LÂU