QUÝ THẦY CÔ DƯỚI THÁNH TƯỢNG QUÁN THẾ ÂM
KHÓA LỄ RẰM VÀ MỒNG MỘT CHÙA VĂN QUỸ
Ngồi dưới bậc thềm tượng Quán Thế Âm
trước cổng chùa làng đợi đến lượt mình nhận quà của đoàn từ thiện về cứu trợ.
Tôi lại miên man nghĩ về chùa làng mình đã bao lần cưu mang che chở cho dân
vượt qua thống khổ của chiến tranh thiên tai, dịch bệnh.
Quê tôi vẫn gọi là chùa Văn Quỹ dung
dị và mộc mạc như vậy mặc dầu có tên là VẠN AN TỰ hẳn hoi. Thuộc xã Hải Tân,
Huyện Hải Lăng nằm tận cùng phía nam tỉnh Quảng Trị cách Thừa Thiên Huế bởi
dòng sông Ô LÂU.
Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tông.
(Trích
câu cuối bài NHỚ CHÙA )
Thơ Huyền
Không
Có lẽ trên Đất Nước mình, Chùa Quê đều
như vậy: Chùa với Đình tuy hai mà một. Nghe quí cụ lão thành kể lại: ngày xưa Chùa và Đình Làng tôi thờ chung trong một ngôi nhà rường năm gian, tiền Phật
hậu Linh (trước thờ Tôn Tượng Bổn Sư Thích Ca, sau thờ linh vị THÀNH
HOÀNG (khai khẩn) hai gian tả hữu thờ Thất Tộc (Bảy họ: Lê, Nguyễn, Đỗ,
Trần, Ngô, Phạm, Nguyễn).
CHÙA HIẾU QUANG
Năm 1957, Chùa tổ chức quy y dưới sự chứng minh của Ân sư Thượng
Tâm Hạ Thái, pháp hiệu Thiện Trí,tự Hoà Khương, bút hiệu Dạ Sỹ Thiện Trí, thế
danh Nguyễn Diệu, sinh năm Đinh Mùi (1907), niên hiệu Thành Thái năm thứ 19.
Đại lão Hòa Thượng Thích Thiện Trí, Giáo Phẩm chứng minh Giáo Hội Phật Gíao
tỉnh Thừa Thiên Huế, tọa chủ chùa Hiếu Quang. Ngoài kiến thức Phật học, Ngài
còn tinh tường về các thể thơ, đối, liễn, nghi lễ và là một soạn giả ca Huế.
Ngài xuất gia lúc 12 tuổi, đầu sư với HT Thích Phước Hậu, trụ trì chùa Linh
Quang Huế. Năm 27 tuổi (1932), Ngài Thọ Tỳ Kheo, năm 75 tuổi Ngài được Giáo Hội
suy tôn lên ngôi vị Hòa Thượng… Về thân thế của Ngài, quê nội là làng Đạo Đầu,
xã Triệu Trung, huyện Triệu Phong, nhưng Ngài được sanh ra và lớn lên cho đến
ngày xuất gia tại quê ngoại là làng Văn Quỹ, xã Hải Tân, huyện Hải Lăng, tỉnh
Quảng Trị. (Chỉ xin trích cuộc đời và hành trạng của HÒA THƯỢNG để hàng đạo hữu
chùa Văn Quỹ biết Bổn Sư của mình…(Tiểu sử trích theo Mai Lâm Giám Lục”).
Tuổi
thơ tôi thường theo mạ đi Chùa, mới đầu ngại ngùng e thẹn, tay cứ níu lấy vạt
áo dài nối của mạ, ngập ngừng từng bước một vào điện thờ mà run. Mạ trìu mến dỗ
dành: - Vào lễ với mạ, Bụt thương con trẻ lắm, con không nhớ Bụt hiện trong
chuyện Tấm Cám mà mệ thường kể cho con nghe à. Mà thiệt, ông Bụt ngồi xếp bằng
trên cao nớ răng mà hiền, mắt nhìn xuống như nhìn tôi, miệng tủm tỉm cười mãi
không thôi, vô tình tôi ngoái nhìn lại sau lưng phía trên cửa ra vào, một ông
mắt trợn trắng bóc, mặt đỏ lòm bộ tướng dữ tợn. Tôi níu tay mạ vừa chỉ vừa thụt
lùi. (Sau này lớn lên mới biết đó là Ngài Hộ Pháp).
Bọn con nít chúng tôi càng
lâu càng gắn bó với chùa, thường theo mạ đi chùa. Mạ vào lễ còn bọn tôi bày đủ
trò phá phách, vô tâm nghich ngợm chơi đùa, nhất là bắt chim, phía sau tượng
Ngài Hộ Pháp có bức hoành phi kín đáo cho chim sẽ tha hồ làm tổ. Té ra trông
tướng ngài dữ dằn lại quá hiền, bọn tôi leo trèo đụng tay, đụng chân, có đứa cả
gan sờ râu, rứa mà đêm về không ai nằm chộ (mơ) và đau ốm chi nơi. Lần đầu
trong đời học sinh ôn thi tiểu học và đệ thất cũng rủ nhau lên chùa học
cho thanh tịnh, mau thuộc bài và lạy phật cầu nguyện… ...
Thế rồi...!
Chiến tranh bùng nổ ngày càng khốc
liệt Tôi đành xa quê, bỏ làng, bỏ chùa tản cư lánh nạn, bước đi mà ngậm ngùi
ngoái lại bâng khuâng khi nhớ về câu thơ của Nguyễn Bính mới thấm thía làm sao:
Mai này Tôi bỏ quê tôi
Bỏ
trăng, bỏ gió, chao ôi bỏ chùa !
Vào Huế, ngày hai buổi đi học đạp xe
qua những danh lam thắng cảnh cố đô, những ngôi cổ tự già lam uy nghiêm trầm
mặc và những mái chùa nho nhỏ như bóng dáng chùa quê : Hiếu Quang, Cát Tường,
Tịnh Bình, cũng thờ Phật, cũng kinh kệ hôm mai mà sao nghe lạ lẫm, không làm
cho Tôi khuây khỏa, răng mà nhớ Chùa, nhớ Phật ở làng mình da diết khôn nguôi.
Như Hòa Thượng MÃN GIÁC (thi sĩ Huyền
Không) quê làng Phương Lang, xã Hải Ba đã minh chứng: “Tình quê của tôi nó thâm
nhập như vậy” nên chi trong thời chiến tranh về thăm làng không được, vào năm
1956 tôi đã sáng tác bài thơ NHỚ CHÙA !
Thấp thoáng đâu đây
cảnh tượng làng
Có con đường đỏ chạy lang thang
Có hàng tre gợi hồn sông núi
Yên lặng chùa tôi ngập nắng vàng(1)
Lang
thang làm thân cùng tử, phiêu bạt nơi xứ người, nhìn Gia Đình PhậtTử “người
dưng” sinh hoạt, văng vẳng bên tai những bài hát "Dây thân ái lan rộng muôn
nhà, tay sắp xa nhưng tim không xa ….”(2). “Ra đi lìa xa mái hiên chùa,
còn đâu bóng lam hiền…….”(3). Lòng bồi hồi, quay quắt nghèn nghẹn nước mắt
chực trào ra thôi. Mỗi chiều hôm nghe chuông chùa ngân nga là mường tượng
chuông chùa làng mình chầm chậm rơi rơi, man mác u hoài lãng đãng sương khói
đôi bờ ô lâu.
Ngồi dưới bậc thềm tượng Quán Thế Âm trước cổng chùa làng đợi đến lượt mình nhận quà của đoàn từ thiện về cứu trợ. Tôi lại miên man nghĩ về chùa làng mình đã bao lần cưu mang che chở cho dân vượt qua thống khổ của chiến tranh thiên tai, dịch bệnh.
CHÙA HIẾU QUANG
Thế rồi...!
Có con đường đỏ chạy lang thang
Có hàng tre gợi hồn sông núi
Yên lặng chùa tôi ngập nắng vàng(1)
Trại chào mừng kỷ niệm 60 năm GĐPT VN
(Trại sinh gđpt VĂN QUỸ)
Chiến tranh rồi cũng qua,mái chùa cũng theo từng nhip sống của dân làng mà đứng vững. Nhớ những ngày khó khăn đó, bà con học bổ túc văn hóa, mỗi người đi học đều mang theo một cây đèn dầu hoặc ngọn đuốc bằng tre gặp đêm rằm, mồng một thì ghé chùa góp thêm ánh sáng cho ngôi Phạm Vũ tụng một thời kinh rồi đi học, chưa biết chữ nhưng Chú Đại Bi và Tâm Kinh thì thuộc làu. Thế mới thẩm thấu sự nhiệm mầu bất khả tư nghị “VÔ NHẤT VẬT” của ánh sáng Vô Tận Đăng của Lục Tổ, nguy khó với chiến tranh, lao đao với bão lũ thì cùng nhau tìm về núp bóng dưới mái chùa quê an bình. Là những nông dân lam lũ, một nắng hai sương với ruộng đồng, được Chư Tôn Đức ở Quảng Trị và Huế thường Quang Lâm sách tấn, được thấm nhuần Đạo vị giải thoát và ánh sáng trí tuệ soi đường đã chắt chiu chăm chút ngôi Gìa lam uy nghiêm cửu trụ an nhiên hằng tại nơi Đất Làng Quê Tôi.
ĐẠO TRÀNG NIỆM PHẬT
Có một ngôi chùa như thế ở miền quê là nơi trưởng dưỡng Đạo Tâm của quý bác trong làng, là nơi tu học khơi nguồn trí tuệ của Đoàn sinh Gia đình Phật Tử và cũng là nơi ưu ái dừng chân của các đoàn từ thiện về cứu trợ họp bàn cùng Khuôn Giáo hội phân phối hàng quà trong tinh thần “BẤT NHỊ” của Tâm Kinh: giàu, nghèo, ghét, thương, lương, giáo. Quê tôi có 2 tôn giáo: Phật Giáo và Công Giáo, tín đồ rất đông, là anh em huyết thống và con dân của 7 họ (tộc)
Có một ngôi chùa như thế ở miền quê là nơi trưởng dưỡng Đạo Tâm của quý bác trong làng, là nơi tu học khơi nguồn trí tuệ của Đoàn sinh Gia đình Phật Tử và cũng là nơi ưu ái dừng chân của các đoàn từ thiện về cứu trợ họp bàn cùng Khuôn Giáo hội phân phối hàng quà trong tinh thần “BẤT NHỊ” của Tâm Kinh: giàu, nghèo, ghét, thương, lương, giáo. Quê tôi có 2 tôn giáo: Phật Giáo và Công Giáo, tín đồ rất đông, là anh em huyết thống và con dân của 7 họ (tộc)
Cứ mỗi lần bất an, tôi chống gậy lên
chùa ngồi yên ả một mình dưới tượng đài Bồ Tát Quán Thế Âm, thấy thanh thản đến
lạ lùng, nhìn đoàn sinh GĐPT sinh hoạt lại vẳng về : “ Hôm nay về dưới bóng cha
lành, lòng con thấy nhẹ nhàng, vì tâm con yên vui…”(4) Thì lòng khinh an, cảm
động đến rưng rưng.
Chùa làng Văn Quỹ, nơi che chở tuổi
thơ tôi rong chơi an lành thì cũng là nơi nương tựa tuổi già chất ngất bình yên
giữa phong ba đời thường./.
MÙA SEN !
Lãm nguyệt hiên cuối xuân
(1)trích thơ “Nhớ Chùa”của HT Mãn Gíac
(2)Dây thân ái nhạc của Lê Lừng
(3,4)Về dưới Phật đài nhạc của Trần Nhật Thành
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét