NHÂN
CÁCH THƠ TRONG “CHIỀU ĐI”
TẬP
THƠ LÊ ĐĂNG MÀNH
Lời
Bình Châu Thạch
Tôi đồng ý với nhà thơ Luân Hoán khi ông nói: “nhà
thơ bày tỏ lòng mình như trình diện một nhân cách”. Tôi cũng đồng ý với nhà thơ
Phạm Đức Nhì khi ông nói: “Nhân Cách (viết hoa) của cái tôi đích thực sẽ kín
đáo bước vào trong thơ và người đọc tinh ý sẽ nhận ra ngay, đâu cần phải trình
diện”. Với tôi, nhà thơ khi sáng tác thì đã gởi hết cái tôi của mình vào tác phẩm,
cho nên dầu không cố ý trình diện cũng phải phô bày cái tôi đích thực của mình,
nghĩa là tự nhiên trình diện nhân cách với đời. Ta có thể hiểu như thế khi đọc
“Chiều Đi” tập thơ của Lê Đăng Mành. Ai biết lê Đăng Mành thì cũng cảm mến một
thi sĩ tài hoa sống nhún nhường, ẩn dật nơi vùng quê hẻo lánh. Không bao giờ có
chuyện nhà thơ nầy muốn trình diện nhân cách mình với đời. Tuy thế, ai đọc thơ
lê Đăng Mành thì cũng cảm phục nhân cách cao trọng được bày tỏ qua thơ anh mà
tôi xin gọi là “nhân cách thơ Lê Đăng Mành”. “Chiều Đi” là một tác phẩm văn dĩ
tải tình, tải đạo, một thứ tình cao thượng và một thứ đạo siêu thoát.
I)-Tải tình cao thượng trong “Chiều Đi”:
Trong “Chiều Đi” rất ít bài thơ viết về tình yêu nam
nữ của riêng mình. Tác giả dành nhiều tình yêu cho những thành phần chịu thiệt
thòi trong xã hội. Ta hãy nghe nhà thơ thổ lộ:
Thương đêm khắc khoải lời ru
Thương tình rều rác trầm phù đợi nhau
Thương người cuốc bẩm cày sâu
Thương ong bướm vỗ rách câu đa tình…!
(
Thương!)
Nhà thơ thương cho Mẹ ru con trong nghịch cảnh,
thương cho tình duyên ly tan phải đợi chờ, thương cho người nông dân và thương
cho những cuộc tình không thành. Nổi bật trong các thứ tình yêu đó là tình
“Thương người cuốc bẩm cày sâu” mà tác giả đã bộc lộ cho người đọc hiểu thấu được
nhân cách cao thượng trong thơ của mình. Nhiều bài thơ trong “Chiều Đi” Tác giả
viết về nhũng sinh hoạt của người nông dân có truân chuyên, có gian khổ nhưng
không với mục đích mô tả đời sống u ám sau lũy tre Làng mà ngược lại, nhà thơ
bày tỏ tấm lòng của mình với đời sống đó, tôn vinh một cuộc sống thanh bần cao
khiết:
Kiếp nông bần uống rượu…cũng kiệm lời
Chẳng khoa trương chuyện thương nòi yêu nước
Mà sử sách ghi mỏi trang bốn ngàn
Chân lấm tay bùn trí soi văn sách
Khoa bảng vọng đồng văn thánh còn ngân.
(Tiệc
rượu giữa đồng!)
Xin trích một phần nhận xét của nhà thơ Nhã My(USA)
về thơ Lê Đăng mành như sau: “Nhưng cho dù phong ba vùi dập, bão táp phủ lên
quê nghèo và phủ lên cả thân phận con người thì đối với tác giả lê Đăng Mành, với
nhân cách và tâm trạng của một người từng trải, sống an nhiên, bằng cái tâm,
cái đạo, đạt lý thông tình, thơ anh không tủi hờn ai oán, không than thân trách
đời, không cầu kỳ mộng ảo. Dòng thơ anh luôn giữ được sự điềm đạm, an nhiên sống
hài hòa với cảnh vật thiên nhiên và trong chiều hướng vươn lên bằng những hy vọng
tốt đẹp hơn”. Thật vậy, đọc Lê Đăng Mành ta không thương người nông dân với thứ
tình yêu ban phát, bố thí mà qua thơ ông ta tôn trọng người nông dân như những
con người kiên cường, đức độ, thâm thúy và tri thức. Lê Đăng Mành đã trình diện
được chiều sâu trong tâm hồn của lớp người nông dân trên ruộng đồng, sau lũy
tre và bên Hiên Lãm Nguyệt, đem đến cho ta sự chia sẻ, yêu thương và kính nể .
II) – Tải đạo siêu thoát trong “Chiều Đi”
Trong bốn câu thơ “Khai Lời” của tác giả ở trang đầu
tập thơ “Chiều Đi” có hai câu thơ sau:
Thơ thong dong dù phên bừng tơi tả
Cứ tiêu pha cho hết cuộc yên hà…
Đọc hai câu thơ nầy ta nghĩ đến một đạo sĩ sống vô
vi, hòa nhập cùng trời đất. Thật vậy, phong cách sống của Lê Đăng Mành ngoài đời
và trong thơ giống nhau. Bên Hiên Lãm Nguyệt nhà thơ tiêu pha tinh túy của đất
trời vào thơ của mình và trong thơ mình nhà thơ Lê Đăng Mành lại tải cho đời
triết ly đạo Phật sâu xa về siêu thoát. Với 146 bài thơ trong “Chiều
Đi” tư tưởng Phật giáo hầu như lồng vào trong bất cứ bài thơ nào. Khác với những
bài thơ Thiền của đa số Thi Sĩ hay Tu Sĩ, thường dùng từ ngữ khó hiểu, ý tứ bí
hiểm, đề cao tư duy của mình như tư duy thần thánh, thơ Lê Đăng Mành chữ nghĩa
giản dị, chân phương, không trừu tượng, ít ẩn dụ, khiến cái tư duy bác học của
mình thành thơ , truyền tải thẩm thấu vào hồn người đọc. Chất lãng mạn,
chất cao siêu trong thơ Lê Đăng Mành làm cho người thâm Nho, người hiểu Phật
hay người bình thường đều đọc được thơ, cảm xúc được với hồn thơ và sự giác ngộ
đến tự nhiên trong tâm linh mỗi người. Ta hãy nghe chất lãng mạn trong vài câu
thơ của bài thơ “Hoa Đăng”: “Đỉnh rằm ánh tỏa muôn nơi/ Rủ rơm vàng nhả thơm
rơi quanh Làng”, “Giọt cười lấp lánh mắt sương/ Cá tung tăng vẫy hớp đường
phóng sanh”, “Mừng khánh đản nụ tâm nhiên/Đăng khai bát nhã tịnh yên xóm làng”.
Qua những câu thơ trên ta thấy lễ Phật Đản không náo nhiệt ồn ào mà êm ái, thơ
mộng trong cảnh quê và trong cả tâm hồn con Phật. Và ta hãy nghe lời thuyết
pháp nhẹ như bông hồng:
Mặt trời cần mẫn thức
Hành tinh mãi mãi xanh
Sân trước cành mai nở
Cầu pháp giới an lành
Chúng sanh đón bình minh
Muôn mùa xuân miên viễn
Tâm bình thế giới bình
Tự tại bước an nhiên.
( Tâm Bình Thế Giới Bình)
Một triết lý cao siêu nhiệm mầu được Lê Đăng Mành
trình bày bằng những câu dễ hiểu như thế,nhẹ nhàng như thế có nhiều trong mỗi
bài thơ của “Chiều Đi”, khiến cho đọc “Chiều Đi” ta thấy vẫn có lũ lụt, có mưa
sa, có bão tố, có chia ly nhưng tâm hồn ta vẫn như an trú vào nơi đồng cỏ
xanh tươi mé nước tịnh bình.
“ Chiều Đi”, một tập thơ dày với rất nhiều tuyệt tác
mà thật tình tôi nghĩ với trình độ ai cũng không diễn đạt hết những cái hay
trong đó. Tôi không trích dẩn nhiều thơ ông ra đây một phần vì khuôn khổ một
bài đăng trên mạng không thể dài, một phần vì tôi nghĩ nên giới thiệu sơ lược tổng
quát một vườn hoa tươi đẹp để khách vào thăm, hơn là ngắt một vàì bông hoa thì
khách chỉ nhìn thấy những đóa hoa bị héo. Tập thơ “ Chiều Đi” viết về
cuộc sống, về niềm vui, về nỗi thăng trầm của đời người, của
tình yêu, của thời cuộc, của những nỗi đau bệnh tật và nỗi đau do
tha nhân đem đến. Dầu ở đề tài nào thì thơ Lê Đăng Mành cũng tha thiết, trong
trẻo, vô biên và quyến luyến. Thơ Lê Đăng Mành chứa đựng đầy ắp tình người,
tình quê với một nhân sinh quan thấm nhuần Phật pháp.
Mong rằng tập thơ sẽ đến tay được nhiều người vì đọc
nó ta tìm được một tâm hồn cao thượng trong cuộc sống đời thường, một phong
cách sống vượt trên mọi nghịch cảnh và một triết lý cao siêu về sự giác ngộ phần
hồn./.
Châu Thạch