Hát ca trù là một bộ môn nghệ thuật truyền thống ở phía Bắc Việt Nam kết hợp hát cùng một số nhạc cụ dân tộc. Ca trù thịnh
hành từ thế kỷ 15, từng là một loại ca trong cung đình và được giới quý tộc và trí
thức yêu thích. Ca trù là một sự phối hợp nhuần nhuyễn và đỉnh cao giữa thi ca và âm
nhạc
Ngày 1 tháng 10 năm 2009, tại kỳ họp lần thứ
4 của Ủy ban liên chính phủ Công ước UNESCO Bảo vệ di sản văn hóa
phi vật thể (từ ngày 28 tháng 9 tới ngày 2 tháng 10 năm 2009), ca trù đã
được công nhận là di sản phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp
Các chuyên gia nghiên cứu đến nay, đa số đã
đồng ý cho rằng Ca trù dưới hình thức ngày nay đã bắt đầu có từ thời nhà
Lê (thế kỷ XV) sau khi cây đàn
đáy do Đinh Lễ sáng chế ra.
Ca trù là dạng nghệ thuật biểu diễn dùng
nhiều thể văn chương như thể phú, thể truyện,
thể ngâm, nhưng thể văn chương phổ biến nhất là hát nói.
Hát nói xuất hiện sớm nhưng phải đợi
đến đầu thế kỷ thứ 19 mới có những tác phẩm lưu truyền đến nay như các tác phẩm
của Nguyễn Công Trứ, Cao
Bá Quát.
MỘNG GIANG HỒ!
( Hát nói"mưỡu đầu và hậu")
Đã
từng cưỡi vạt tang bồng
Đâu
hay sóng liệm thuyền chòng chành nghiêng
Vui thú yên hà tiên cõi tục
Lòng hăm hở thôi thúc kết muôn miền
Không ngờ chừ vỡ mộng chinh yên
Nên trôi dạt để đảo điên ném trùm ngất ngưởng
Nếu ý
thức mang bao viễn tưởng
Thì tâm tư chở bấy oan khiên
Nay tiêu dao giữa cuộc điền viên
Cùng trăng gió hằng đêm trau chuốt vận
Khều sao trời nước ghen ôm bờ lẩn thẩn
Vẫy bút nghiên mà thẹn với quan san
Rượu
giang hồ phất chứa chan
Hắt thềm phiêu bạt chiết tang thương
triền
Mơ hồ sương khói như nhiên
Lê Đăng Mành
DUYÊN NỢ !
“Hát nói” (Đủ khổ
mưỡu đầu)
Nhân đã gieo giữa hư không
Đủ duyên là nảy tơ hồng cái chi
Nguyệt lão cứ đành hanh kết chỉ
Ở xa xăm mà buộc sợi tào khang
Để bây chừ xức bức xang bang
Cái hạnh phúc chen khổ đau thêm bải hoải
Đó phận thuyền quyên dòng yểu
điệu
Đây tông chánh khí giống ngang
tàng
Can chi mà buộc phải đa mang
Làm cho lủ thị phi xô tọc mạch
Cứ tam tòng gánh tứ đức ỳ ạch
Buồn hắt hiu chinh cổ cũng
bâng khuâng
Ai không duyên nợ chàng ràng.